1656-1680
Tìm Chúa
Ngày 21.10.2012 tới đây tại Rôma, Đức Thánh Cha
Biển Đức XVI sẽ tuyên thánh cho một thiếu nữ 24 tuổi người da đỏ ở Bắc Mỹ, hoa trái
của hoạt động truyền giáo của các thừa sai và tử đạo Dòng Tên.
Tiểu sử của chị được hai cha Dòng Tên người
Pháp là Pierre Cholenec và Claude Chauchetière, phụ trách giáo điểm
Kahnawake, soạn thảo ngay sau
khi chị qua đời. Chị sinh năm 1656 tại làng Ossernenon,
ngày nay là Auriesville,
trong thung lũng Mohawk, tiểu
bang
Vào thời của chị, hầu hết các dân tộc bản địa ở
khu vực Băc Mỹ còn bán khai. Chẳng hạn họ giết và ăn thịt người. Cha chị là Kenneronkwa, một thủ lãnh Mohawk, thuộc sắc dân Iroquois, thù nghịch với sắc dân Algonquin sống trên lãnh thổ Canada
ngày nay, và rất ghét đạo. Mẹ chị là Tagaskouita
thuộc sắc dân Algonquin, theo
đạo Công Giáo, sinh trưởng và được học với các thừa sai Dòng Tên ở vùng Trois-Rivieres, trên đất Canada hiện
nay. Trong một trận tấn công của dân Mohawk,
bà bị bắt đem về làng Ossernenon
cùng với một số người khác. Tại đây, bà kết hôn với viên thủ lãnh ngoại giáo. Hai
người sinh được một con gái và một con trai. Lúc còn rất nhỏ, chị được mẹ kể chuyện
về Chúa Giêsu và dạy đọc kinh. Năm chị 4 tuổi, một cơn dịch giết chết nhiều
người trong vùng, trong đó có cha mẹ và em trai của chị. Bản thân chị bị rỗ mặt
và mắt rất kém. Mồ côi, chị được cậu và hai dì nuôi dưỡng, theo thói quen mẫu
hệ của dân Mohawk.
Sau trận dịch, cậu chị thay cha làm thủ lãnh,
đưa dân làng đến định cư ở Caughnawaga,
cách làng cũ gần 10 km, hiện nay là Fonda.
Như các thiếu nữ Mohawk khác,
chị được học may vá thêu thùa, kể cả làm dây thắt lưng bằng da thú. Chị học dệt
chiếu, đan giỏ và hộp bằng sậy hay cói. Chị thông thạo chế biến thức ăn
từ thú săn được hay từ nông sản. Chị cũng tham gia trồng tỉa hay nhổ cỏ theo
thời vụ. Tóm lại, chị được dạy để trở nên một phụ nữ đảm đang trong gia đình.
Có một điều hơi khác thường: người ta thấy cô bé Tekakwitha thường hay vào rừng một mình, không biết tại
sao. Chị không quên những gì mẹ đã dạy: chị thích ở một mình để nhớ lại những
điều mẹ kể và đọc các kinh mẹ dạy. Năm 13 tuổi, theo thói quen trong làng, chị
được thúc giục lấy chồng, nhưng chị không chịu. Đây là điều lạ thường đối với
các cô gái Mohawk.
Thời ấy dân Mohawk
vừa thù nghịch với dân Algonquin
vừa thù nghịch với người Pháp ở
Sau khi gia nhập Hội Thánh, chị bị chống đối
mạnh mẽ từ gia đình đến dân làng. Hằng ngày chị bị trẻ em chế diễu và nhiều khi
bị ném đá. Vì chị dành ngày Chúa nhật để đi lễ và học giáo lý, không làm việc,
nên gia đình không cho ăn. Chị bị đe dọa nếu không bỏ đạo sẽ bị đánh và giết.
Vừa để tránh những hoạt động thù nghịch, vừa muốn hoàn toàn dâng mình cho Chúa,
theo lời khuyên của cha phụ trách giáo điểm, 6 tháng sau ngày được rửa tội, chị
cùng với mấy người quen trốn nhà, đi bộ hơn 2 tháng, vượt rừng vượt suối, băng
qua hơn 320km đến giáo điểm Thánh
Phanxicô Xavier ở Sault
Saint-Louis theo cách gọi của người Pháp, hay Kahnawake theo cách gọi của thổ dân,
ngay cạnh thành phố Montreal.
Giáo điểm này được các thừa sai Dòng Tên thành lập để truyền giáo cho dân Algonquin. Vào lúc thánh Kateri Tekakwitha đến, đời sống đạo ở
giáo điểm đã khá ổn định. Chị đến ở nhà dài
của bà Anastasia
Tegonhatsiongo, một người bạn thân của mẹ chị, bên bờ sông Saint-Laurent. Cùng ở với bà Anastasia
có một vài thiếu nữ khác: họ sống với nhau như một cộng đoàn nữ tu, nhưng không
có tổ chức chi hết.
Thuộc trọn về Chúa
Ở Kahnawake,
ngay lập tức đời sống của chị được mọi người khen ngợi. Chị chăm chỉ đến nhà
thờ đọc kinh dự lễ, nhiều khi ở một mình trước Chúa Giêsu Thánh Thể lâu giờ.
Chị siêng năng lần hạt Mân Côi và lúc nào cũng đeo tràng hạt ở cổ. Chị hiền
lành, ít nói, chăm làm, hay giúp đỡ người khác. Lễ Giáng Sinh năm 1677, chị
được rước lễ lần đầu.
Khẩu hiệu của chị Kateri là: “Ai sẽ cho tôi biết điều gì đẹp lòng Chúa nhất để
tôi thực hiện?” Ngoài các việc đạo đức, chị thường xuyên thăm viếng
và giúp đỡ những người già cả và đau yếu trong làng. Chị cũng chỉ bảo các em bé
về giáo lý và cầu nguyện theo như chị hiểu. Một thú vui của chị là trồng những
cây Thánh Giá bằng gỗ trong rừng để nhắc nhở mình cũng như mọi người về việc
cầu nguyện.
Cả ở Kahnawake,
áp lực về hôn nhân vẫn còn. Ngày 25.3.1679, sau khi hỏi ý kiến cha phụ trách,
chị tuyên khấn trọn đời sống khiết tịnh. Đây là điều chưa từng có trong các thổ
dân địa phương. Chị muốn thuộc riêng và thuộc trọn về Chúa Giêsu. Cha Cholenec
thuật lại lời chị: “ Con đã suy nghĩ kỹ
rồi. Con đã quyết định từ lâu rồi. Con muốn hiến thân trọn vẹn cho Chúa Giêsu,
con của Mẹ Maria. Con chọn Người làm chồng, và chỉ mình Người cưới con làm vợ
thôi.” Các cha đề nghị với các phụ nữ đạo đức một vài việc
hãm mình nhỏ, không ngờ họ đi xa hơn nhiều. Do lòng đạo đức và quan niệm riêng,
bà Anastasia hướng dẫn chị
cũng như những người khác làm nhiều việc khổ chế để đền tội cho dân tộc mình và
cầu nguyện cho dân tộc mình theo đạo.
Trong số những người bạn cùng sống ở nhà dài
với chị có Maria Têrêxa Tegaiaguenta. Hai người gặp nhau lần đầu vào mùa xuân
năm 1678. Vì lòng đạo đức, cả hai cùng bắt đầu bí mật đánh tội. Cha Cholenec sau này cho biết
là mỗi lần họ dùng dây tua đánh tội từ 1000 đến 1200 cái. Chị Kateri đã thực
hành như vậy hằng ngày cho đến chết. Một chị khác tên là Maria Skarichions cho
biết về đời sống và hoạt động của các nữ tu. Họ quyết định cùng nhau xin cha
phụ trách cho lập một dòng nữ. Các cha Dòng Tên cho là chưa thích hợp nên ngăn
cản. Khi chị Maria Têrêxa rời nhóm, chị Kateri trở thành “thủ lãnh” của nhóm.
Chị thường khuyên: (1) Hãy can đảm, bất
chấp những lời nói của những người không có đạo; (2) Vững tin là chúng ta sống đẹp lòng Chúa và tôi sẽ
giúp chị khi tôi lên với Chúa; (3) Đừng bao giờ bỏ việc khổ chế.
(Hinh5)
Vì thường xuyên hãm mình và khổ chế, sức khỏe
của chị Kateri suy giảm nhanh chóng. Đến Tuần Thánh năm 1680, chị kiệt sức. Cha
Cholenec thuật lại buổi chiều thứ tư Tuần Thánh:
“3 giờ chiều, chuông nhà nguyện đổ để tập họp cộng
đoàn, vì nhiều người muốn có mặt khi chị tắt thở. Chị thấy mọi người hiện diện
đông đủ. Mọi người quỳ gối cầu nguyện. Sau nửa giờ ngắn ngủi, chị nói những lời
cuối cùng: ‘Iesos! Wari!’ (Giêsu! Maria!) Rồi chị hơi nhép miệng bên phải. Chị
ra đi như thể nhẹ nhàng chìm vào giấc ngủ và một lúc lâu chúng tôi chưa biết chị
còn sống hay đã chết. Ít phút trước 4 giờ, khuôn mặt chị biến đổi trở nên rất
xinh đẹp, tươi cười và rạng rỡ… Chị đã từ giã dân làng để lại hương thơm đức hạnh
và thánh thiện. Mấy tiếng sau, trong lễ đưa chân, tôi nhắc mọi người về kho báu
Chúa đã tặng cộng đoàn… Chị Kateri đã chết như chị đã sống, nghĩa là một vị thánh.
Ai cũng tiên đoán một người đã sống như vậy thì sẽ chết thế nào, vì chị đầy ơn
Chúa Thánh Thần…”
Trên mộ chị Kateri, các cha phụ trách cho
ghi dòng chữ: “Bông hoa xinh đẹp nhất xưa
nay nở giữa dân da đỏ”. Cha Chauchetiere cho xây một nhà nguyện gần
mộ chị. Từ năm 1684, khách hành hương bắt đầu đến cầu nguyện với chị.
Một cô gái da đỏ bán khai sống ở Bắc Mỹ vào thế
kỷ 17 có một sứ điệp gửi cho chúng ta sống trong thế kỷ 21? Dường như giữa ngài
với chúng ta không có một liên hệ nào. Tuy nhiên, trong một thế giới tục hóa, giữa
bao nhiêu tiến bộ khoa học và ký thuật vẫn đầy mâu thuẫn này, hình như khuôn
mặt đơn sơ và thánh thiện của ngài vẫn có thể thu hút và gợi hứng cho những
người đang đi tìm một cuộc sống có ý nghĩa, xây dựng một thế giới công bình và
hòa bình.
Vương Cung Thánh Đường Chính Tòa giáo phận Santa Fe, Mêhicô
***
Gm. Cosma Hoàng Văn
Đạt, SJ